PTTH Nguyễn Khuyến Nam Định khóa 1991-1994
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

PTTH Nguyễn Khuyến Nam Định khóa 1991-1994


You are not connected. Please login or register

Nhà thơ Nguyễn Khuyến và Trường PTTH Nguyễn Khuyến Nam Định

2 posters

Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

dangtuandkt

dangtuandkt
Thành viên ưu tú
Thành viên ưu tú

Hôm nay ngồi nói chuyện với mọi người về các bài văn gây buồn cười chợt nhớ tới một đoạn văn ngày xưa đọc được đại ý như sau: Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của Việt nam, Ông còn có hai người anh là nhà quân sự đại tài Nguyễn Trãi và Đại thi hào Nguyễn Du. Sad
Nhân đây tôi cũng tìm hiểu luôn về tiểu sử Của Ông và cũng mong mọi người có thời gian tìm hiểu về Nguyễn Khuyến và ngôi trường mang tên Ông tại thành phố Nam Định (Ai có Ảnh,... tư liệu gì thì pot lên nhé)


Nhà thơ Nguyễn Khuyến, tên thật là Nguyễn Thắng [1], hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông là làng Và, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.
Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (1796-1853), thường gọi là cụ Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799-1874), nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạt.
Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường cụ Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên phẫn chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội NguyênĐình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.
Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.
Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.

vodka_standard

vodka_standard
Connecting People
Connecting People

Ông T xoá cái bài lúc sáng rồi à? Shocked

vodka_standard

vodka_standard
Connecting People
Connecting People

Hí hí, nhà em nhầm. Nó nằm tít trong góc VHNT nên em tìm mãi chẳng ra, lại trộm nghĩ hay là có tí liên đới nào với cái gọi là NVGP nên cụ ngại, hoá ra deck phải thế Very Happy Very Happy Very Happy

dangtuandkt

dangtuandkt
Thành viên ưu tú
Thành viên ưu tú

NHỮNG GIAI THOẠI VỀ NGUYỄN KHUYẾN
1. Lạy "cột "
Vì Nguyễn Khuyến là 1 nhà Nho có danh vọng, những việc làm của ông có thể có ảnh hưởng đến các sĩ phu yêu nước. Nên bọn quan lại tay sai của Pháp dẫn ông đến gặp công sứ Pháp của thành Nam (Hà nam-Nam Định), dặn cụ lạy hắn khi ra mắt. Gặp viên công sứ, Nguyễn Khuyến tỏ ra rất cung kính, loay hoay sửa áo sửa khăn, rồi bỗng chắp tay lạy ngay cái cột bên cạnh hắn, miệng xuýt xoa :" Lạy cụ lớn ạ ". Lũ quan có mặt, tuy sợ phật ý quan Tây, nhưng cũng phải bật cười ồ. Nguyễn Khuyến ra vẻ ngơ ngác, ậm à xin lỗi :

- Chết thật, mắt tôi kém nên chả nhìn thấy rõ, có điều gì không phải, xin cụ lớn và các quan bỏ lỗi cho.
Công sứ Pháp lắc đầu ngán ngẩm, hỏi han qua quýt, rồi sai người dẫn ông về.
2. Chày đứng
Đình của làng bên năm nào cũng cháy, dân làng mới dựng lại ngôi đình khác và sang xin nhà thơ Nguyễn Khuyến vài chữ để treo, vì tin rằng ông vốn hay chữ, chắc sẽ trị được "Hoả thần". Ông bảo người nhà lấy giấy bút, vẽ cho 1 chữ "Nhất" thẳng đứng, chỉ tội hai đầu hơi to ; với lời dặn dò nên cẩn thận củi lửa vào mùa khô.
Năm đó, đình làng không cháy, dân làng ca ngợi và cho người sang khoe, luôn tiện hỏi ý nghĩa chữ ông đã viết để" trấn" thần lửa. Ông hóm hỉnh trả lời :




  • Nào tôi có viết chữ gì đâu, tôi chỉ có vẽ cái "chày đứng", nghĩa là "đừng cháy" đó mà .
Điều quan trọng là dân làng đã để ý canh chừng củi lửa, nên đã thoát khỏi nạn cháy đình.
3. Vợ người thợ nhuộm khóc chồng
Bên cạnh nhà Nguyễn Khuyến có đôi vợ chồng người thợ nhuộm. Chẳng may anh chồng qua đời, để lại vợ dại con thơ. Chị vợ sang xin nhà thơ 1 câu đối để khóc chồng; ông lấy giấy bút ra, viết ngay hai câu :
Thiếp từ thuở lá thắm xe duyên, khi vận tía, lúc cơn đen, điều dại điều khôn nhờ bố đoû.
Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại,vợ má hồng,con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh.
Hai câu thơ đã nói lên mối tình thắm thiết của người vợ khóc chồng, lại có cả mầu xanh đỏ tím vàng . của nghề thợ nhuộm. Quả thật là một câu đối đầy mầu sắc.
4.Đón quan
Con trai cả của Nguyễn Khuyến là Nguyễn Hoan ; làm tri phủ Lý nhân. Một hôm có việc về làng Vĩnh Trụ, dân làng đón rước chậm trễ, tri phủ sai nọc lý trưởng ra đánh, ông này lại là chú vợ của quan.
Ít lâu sau, quan phủ về làng Yên Đổ, vừa về đến đầu làng, thì trong đám dân đứng đón, có 1 cụ già khăn áo chỉnh tề, bước ra trước mặt quan, cung kính chắp tay vái :
- Lạy quan lớn ạ.
Vừa thấy bố, quan phủ hoảng hốt, nhảy vội ra khỏi võng sụp lạy :
- Con lạy thày, thày tha cho, xin đừng làm vậy.
Nguyễn Khuyến tảng lờ như không, lễ độ nói :
- Nghe tin quan lớn về làng, tôi tuy già yếu, cũng phải thân hành ra đón, kẻo quan lại
trách tôi vô lễ mà cho mấy roi như lý trưởng làng Vĩnh Trụ, thì tôi chịu sao nổi.
Nguyễn Hoan biết ý bố muốn dạy mình, vội xin lỗi, và hứa sẽ từ bỏ thói hống hách nghênh ngang.
5. Vịnh trâu già
Năm 1902, vua Thành Thái ra Hà Nội khánh thành cầu Doumer (sau đổi thành cầu Long Biên ). Các bậc khoa bảng và quan chức các tỉnh phía Bắc đều phải có mặt, Nguyễn Khuyến cũng phải đến bái yết.
Nhìn trên khán đài, có bà hoàng phi của vua, hồi trẻ suýt trở thành con dâu ca û của nhà thơ, lại có viên toàn quyền Pháp Paul Doumer. Ông không muốn lạy, giảvờ dềnh dàng sửa áo sửa khăn , loay hoay như 1 con trâu vướng cột, trông rất buồn cười. Nhà vua chờ lâu, khó chịu quở trách, ông lấy cớ mình già nua chậm chạp, chống chế xin lỗi. Sau khi biết đấy chính là Nguyễn Khuyến, danh sĩ số 1 của đất Bắc, Vua cũng nể vì , và bắt ông làm bài thơ tạ tội, lấy đề thơ là "Vịnh trâu già ". Sau 1 lúc suy nghĩ, ông xin đọc :
Một nắm xương khô, một nắm da
Bao nhiêu cái ách đã từng qua
Đuôi khom biếng vẫy Điền Đan hỏa
Tai nặng buồn nghe Nịnh Tử ca
Sớm thả vườn Đào chơi đủng đỉnh
Tối về thôn Hạnh thở nghi nga
Có người toan giết tô chuông mới
Ơn đức Vua Tề lại được tha .
Bài thơ thật hợp với đề tài và sâu sắc, mượn trâu để nói lên tâm trạng của mình : Tôi gầy ốm vì qua nhiều tai ách, chán chường truyện mưu kế của tướng Điền Đan đốt đuối trâu tấn công kẻ thù, tai cũng chả buồn nghe những lời ton hót của kẻ nịnh bợ (có chăng là buồn vì nghe tiếng ca của hiền tài Ninh Thích không được trọng dụng); Tôi như trâu có công thời Vũ Vương đánh Trụ, được ăn nơi vườn Đào, ngủ ở thôn Hạnh đấy ; người ta tính đem tôi đi "tế chuông ", nhà vua có tha cho tôi như vua Tề năm xưa không ?
Vua lắng nghe và nghĩ ngợi, quả thật là hay nhất là câu cuối "Ơn đức vua tề lại được tha ", nhà vua tha cho ông tội bất kính và còn thưởng cho 1 tấm lụa.

dangtuandkt

dangtuandkt
Thành viên ưu tú
Thành viên ưu tú

1.Xem câu đối

Tục xưa, hàng năm cứ đến rằm tháng Chạp thì các thày đồ đã bắt đầu cho học trò nghỉ Tết Nguyên đán. Còn trong dân gian thì ngày 23 tháng Chạp thường ăn Tết ông Táo rất to, ở nhiều nơi Tết Nguyên đán hầu nhưcũng bắt đầu luôn từ đấy.

Vào năm Nguyễn Khuyến đang làm gia sưcho Hoàng Cao Khải, tới ngày rằm tháng Chạp năm ấy, ông cũng xin nghỉ về quê nhà ăn tết.

Sau khi Nguyễn Khuyến về quê rồi, Hoàng Cao Khải nhân có việc quan phải qua Hà Nam, bèn nhắn cho Nguyễn Khuyến biết là sẽ ghé thăm ông.

Hôm đó, đúng 23 tháng Chạp, Tết ông Táo, Nguyễn Khuyến sai người trồng một cây nêu cao, trên treo một chiếc đèn lồng và một vế đối như sau:

Kiết kiết can mao, tiết đáo, kinh thiên phù nhật nguyệtNghĩa là: Chót vót cờ mao, đến Tết, chống trời phò nhật nguyệt.

Câu này nghĩa đen nói về cây nêu cao có treo đèn, nhưng nghĩa bóng là tỏ chí khí của nhà thơ. Vế đối lơ lửng này cốt để nhử Hoàng Cao Khải vào tròng...

Quả nhiên khi Hoàng Cao Khải tới, đọc vế đối ở cây nêu thì tấm tắc khen hay, nhưng thấy chỉ có một vế thì thắc mắc lắm, cứ nằn nì đòi Nguyễn Khuyến viết nốt vế thứ hai.

Chỉ đợi có thế, Nguyễn Khuyến bèn dẫn Hoàng Cao Khải vào trong bếp nhà mình, ở đó cạnh mấy cỗ đầu rau mới nặn, viên Kinh lược sứ Bắc kỳ đọc thấy vế đối lại như sau:

Mang mang khối thổ, thời lai, tảo địa tác quân vương.Nghĩa là: Mênh mông khối đất, gặp thời, quét rác cũng làm vua

Câu này nghĩa đen chỉ là nói mấy ông đầu rau nặn bằng đất (vua bếp). Nhưng ý tứ sâu xa là bảo Hoàng Cao Khải chỉ là đồ nặn bằng đất thịt, chẳng qua gặp thời thì nên đó thôi.

Hoàng Cao Khải vì tò mò muốn xem vế đối mà phải chui vào bếp, đã bực, lúc ngẫm vế đối có ý xỏ xiên như thế thì càng bực hơn; nhưng cũng đành cười nhạt cho qua chuyện vì không thể trách tội Nguyễn Khuyến được.

* * *

2.Thơ Bồ Tiên

Một viên quan to, có con trai được bổ tri huyện Thanh Liêm, Hà Nam (gần huyện của Nguyễn Khuyến). Anh này do nhờ vào quyền thế của bố, lại khéo chạy chọt với Tây nên được bổ chân tri huyện ấy. Khi nhận chức, bề ngoài anh ta tỏ vẻ một viên quan thanh liêm, hiền hậu; nhưng kỳ thực là một tay ăn tiền kín đáo đồng thời làm mật thám cho Pháp để đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhưng anh ta lại hay bày trò thi thơ, để lừa bịp nhân dân về uy đức của mình. Một lần anh ta tổ chức kỳ thi thơ hàng huyện, ra đề thi là "Bồ tiên thi" (thơ roi cỏ bồ), lấy vần "bồ" đề thi có ý nói về việc ông quan thương dân, trong khi răn bảo dân chỉ dùng roi cỏ bồ, vì roi cỏ bồ mềm mại, đánh không đau...

Câu chuyện đồn đến tai Nguyễn Khuyến. Ông thấy chướng tai gai mắt, bèn gửi tới cho viên quan một bài thơ như sau:
Chú huyện Thanh Liêm khéo vẽ trò
Bồ tiên mà lại lấy vần bồ
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ
Ngọng nghẹ văn chương giở giọng Ngô!
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên là ý chú muốn nhiều xu
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,
Không khéo mà roi nó phết cho.

dangtuandkt

dangtuandkt
Thành viên ưu tú
Thành viên ưu tú

Nguyễn Khuyến và Tú Xương (ST)
1.Hồn thơ Nguyễn Khuyến
chính là "Tiếng sáo vo ve" bên trời "nước vọng", là "bóng trăng trôi"dưới dòng lũ vô tình cuộn xiết, hóa chiếc thuyền thơ cô độc len lỏi trên thi đàn Việt Nam thuở cơn lụt lội nhân tình thế thái ngập tràn xứ sở. Ngay trong hai câu thơ hay đến sững sờ tả cảnh đẹp hun hút, đẹp rờn rợn nổi gai ốc của nước lụt Hà Nam này, Nguyễn Khuyến cũng chỉ cốt mượn nước lụt mà gọi hồn nước về trong từ "nước vọng" để : "Sửa sang việc nước cho yên ổn"... Tâm thức "nước", "nước non", "đất nước"... có thể nói là tâm thức chủ đạo của Nguyễn Khuyến trong cả thơ nôm và thơ chữ Hán; tuy ở đây chúng tôi chỉ mới khảo sát qua thơ nôm của ông mà thôi. Trong bài thơ "Tự trào", Nguyễn Khuyến nói thẳng ra điều cốt lõi nhất, đau đớn nhất của ông là nỗi nhục, nỗi đau vong quốc, thông qua nghĩa đen của cuộc chơi cờ :"Cờ đương giở cuộc không còn nước". Vì "Không còn nước " nên vua cũng không còn thực nữa, chỉ là vua hề, chỉ là quan phường chèo thôi :" Vua chèo còn chẳng ra gì / Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề "( Lời vợ anh phường chèo). Một vị túc nho lấy trung quân ái quốc làm đầu, phải tự tìm nhọ nồi, muội đèn, tro trấu mà bôi trát lên mặt vua quan thành trò hề như thế, với Nguyễn Khuyến hẳn là nỗi đau lớn nhất trong đời? Vì "Không còn nước" nên sau hơn 12 năm làm quan tới chức Tổng đốc Sơn Tây, lúc vua Tự Đức mất và vua Hàm Nghi ra chiếu cần vương chống Pháp, nhà thơ mượn cớ mắt lòa cáo quan về ẩn dật cùng cà thâm dưa khú. Ông buồn lặng hóa "mây côi", hóa "hạc độc", hóa thành " hoa năm ngoái", thành "ngỗng nước nào", thành con cuốc gọi hồn nước năm canh, thậm chí hoá thân vào mẹ Mốc, vào gái góa, vào anh giả mù, giả câm giả điếc, thậm chí giả điên kiểu Sở cuồng, làm thơ đả kích giặc và tay sai, như một cách yêu nước kháng Pháp của riêng mình... Nguyễn Khuyến đau đớn nhận ra hoa nở ngoài giậu thu cũng không còn là hoa hôm nay của mình nữa, ngỗng kêu trên bầu trời quê hương dĩ nhiên là ngỗng nước mình, chứ sao lại là ngỗng nước nào:" Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái / Một tiếng trên không ngỗng nước nào" ?( Thu vịnh). Khi "Không còn nước" nữa thì con ngỗng kia cũng thành vong quốc, vong thân, thành "ngỗng nước nào"thôi. Phải chăng ngỗng ấy cũng là ngỗng từ năm ngoái, ngỗng của mình xưa mà không dám nhận, mà phải đau đớn than là "ngỗng nước nào"? Rằng người không còn giữ được nước thì bay về làm gì ngỗng ơi? Nhà thơ tủi hổ với cả ngỗng trên trời và hoa dưới đất, muốn làm con cá lặn khuất dưới ao bèo, ngại cả nỗi cắn câu. Đất đã mất thì trời phỏng còn ư, mùa thu phỏng còn ư ? Hoa ấy, ngỗng ấy cũng là Nguyễn Khuyến; như "mây côi" và "hạc độc" kia còn bị vong thân, vong quốc huống nữa là trời đất, con người! Chúng tôi cho rằng, dù viết về phong cảnh mùa thu nông thôn , dù nới rộng đề tài ra từ bản thân mình đến xã hội, từ chim hoa, xóm mạc đến nước non... hồn thơ Nguyễn Khuyến bao giờ cũng toát lên một tinh thần yêu nước sâu xa, yêu nước trong đau đớn, tủi buồn, yêu một cách trầm lắng mà sôi sục, quặn thắt mà quan hoài, trào lộng mà trữ tình, kín đáo mà động vang, cô đơn mà hòa nhập, lạnh lùng mà bỏng cháy, dữ dội mà dịu êm. Bút pháp nghệ thuật bậc thầy dùng thuỷ nói hỏa, dùng tĩnh tả động, dùng dương tả âm, dùng vật tả tâm, dùng cảnh ngụ tình và ngược lại của Nguyễn Khuyến đã khiến không ít người khi tiếp cận thi ca ông, mới đụng vỏ ngoài đã tưởng thấu vào gan ruột. Ví như trường hợp ba bài thơ thu của thi hào là bài "Thu vịnh", "Thu điếu", "Thu ẩm" được coi là dấu hiệu thiên tài của nhà thơ nông thôn đệ nhất Việt Nam mà có người, ngay cả khi viết sách giáo khoa cũng chưa thẩm hết hồn thu Nguyễn Khuyến. Họ nhìn bằng mắt thường nên ngỡ mặt ao thu bình lặng kia là đáy nước, nên bảo nhà thơ viết về mùa thu với tâm trạng thư thái, an nhàn(!) Rằng nhà thơ uống rượu say nhè như anh Chí Phèo say rượu lè nhè vậy...Không, Nguyễn Khuyến chỉ hớp một tí rượu trong chén hạt mít lấy hứng, chứ không say lè nhè như ai hiểu. Dưới cảnh thu, ngồi nhấp chút rượu thu, câu cá thu, làm thơ thu, nhà thơ chỉ mượn bề mặt tĩnh lặng ao thu mà tả sự động vang sôi sục, quặn thắt, u uẩn, buồn thương nơi thẳm đáy lòng mình , đặng gọi hồn nước đã mất về thương hồn thu hiển hiện. Nói theo kiểu Apollinaire, Nguyễn Khuyến chừng cũng cảm thấy hồn thu đã chết, đã bỏ đi đâu như hoa kia ngỗng nọ, chỉ còn thân xác thu trong veo, cô quạnh, vắng ngắt, bàng bạc như con ve mùa hè nằm chết trong mùa thu sau khi đã hát rỗng cả ruột gan. Tả lửa song Nguyễn Khuyến vẽ khói, tả nước mà nói thu, tả nỗi thẹn mình, tủi lây sang thu mà phải mượn tới ông Đào Tiềm đời Tấn. Cũng có thể gọi ba bài thơ thu của ông là tiếng chiêu hồn thu, chiêu hồn nước. Ngồi thưởng thu không chút thư nhàn, đau xót quá, cảm thương nước mất mà sao thu vẫn rưng rưng tìm về, nên nhà thơ không đừng lòng được, đành rơm rớm khóc :" Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe"? Đừng đổ oan cho Nguyễn Khuyến "mắt đỏ hoe" vì say rượu. Mùa thu trong ba bài thơ đẹp đến lạnh ngắt, đẹp đến tột cùng cô đơn, u tịch, phải chăng vì mùa thu chưa chiêu được hồn "hoa năm ngoái", chưa gọi được vía " ngỗng nước nào"...? Cám cảnh thay nỗi " Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được" của nhà thơ, như thể ông là tù binh của cần câu, là tù binh của chính hồn mình đang ở đâu đâu trong trời đất mang mang thiên cổ lụy? Nguyễn Khuyến yêu nước lắm, thương nòi lắm, đau đớn nỗi đời quay quắt lắm, đành giấu kín tình yêu nước vào cảnh thu, ao thu, rượu thu như cá giấu dưới ao bèo. Thi thoảng, ta nghe một tiếng "Cá đâu đớp động dưới chân bèo", như nhà thơ ngầm an ủi mình rằng còn cá tức nhiên còn nước...Vì vậy, Nguyễn Khuyến rút ruột hóa thân vào hồn Thục Đế xưa, thành con cuốc gọi hồn nước nay đến chảy máu cả đêm hè :" Năm canh máu chảy đêm hè vắng / Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ / Có phải tiếc xuân mà đứng gọi / Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ " ( Cuốc kêu cảm hứng ). Thương thay cho "Ngỗng nước nào" vẫn không chịu bay đi, còn kêu xé trời cao trong thảng thốt nỗi niềm dù mùa thu đã chết. Con ngỗng vong thân, gãy cánh, đáp xuống trang thơ mà hóa thành con cuốc Việt Nam chiêu hồn nước tới bây giờ. Bài thơ "Cuốc kêu cảm hứng" thật hay, thật đoạn trường, đọc xong muốn khóc. Chúng ta thương và kính trọng Nguyễn Khuyến vô cùng. Ông đã nén cả một nhân cánh lớn, một hồn thơ lớn, một tri thức lớn, một nỗi đau lớn vào tiếng cuốc nhớ nước thảm thiết làm chảy máu cả tâm can người đọc hôm nay.Tinh thần hoài cổ, tinh thần "Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ " len lỏi vào mọi tâm sự, mọi vui buồn, thương giận, nhớ nhung của nhà thơ. Ngay cả khi vịnh ông phỗng đá với ngụ ý diễu mình, nhà thơ vẫn xót xa hỏi :" Non nước đầy vơi có biết không ?"Chính vì nỗi "non nước" khôn nguôi này làm ông tủi hổ, làm như lỗi tại mình mà nước mất nhà tan, nên mượn thơ mà cả thẹn :" Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già / Xuân về ngày loạn càng lơ láo ". Một người tài cao, học rộng, thương xót, nương nhẹ từng cọng cỏ nhành hoa, một nhân cách lớn, khiêm cung tự tại, lại phải đưa mình ra mà diễu, mà tự cười cợt, bông phèng mình thì hẳn là phải đau đớn lắm, khổ tâm lắm :"Mở miệng nói ra gàn bát sách / Mềm môi chén mãi tít cung thang / Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ " hoặc :" Lúc hứng uống thêm dăm chén rượu / Khi buồn ngâm láo một câu thơ ". Một người thính nhạy như Nguyễn Khuyến từng biết nghe bằng hồn, bằng vía, chán nỗi đời đục mà giữ mình trong, đành ngụ mình, nương mình làm "Anh giả điếc ":" Trong thiên hạ có anh giả điếc / Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây" ...." Sáng một chốc lâu lâu rồi lại điếc". Phải giả mù, giả câm, giả điếc để sống, mà vẫn sống được trong xã hội nhố nhăng nửa thực dân phong kiến thối nát, đảo điên kia, mới thương cho Nguyễn Khuyến phải ra tuồng trong chính thân phận mình:"Mua vui lắm lúc cười cười gượng / Giả dại nhiều khi nói nói bông". Mượn sự điên dại của " Mẹ Mốc" tỏ bày tâm sự, Nguyễn Khuyến như tự xé quần áo tinh thần mình để phơi bày "hình hài gấm vóc" ra mà che mắt thế gian, những mong yên ổn :"Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa / Làm thế để cho qua mắt tục ". Mẹ Mốc ấy là tâm hồn vằng vặc muôn sau của Nguyễn Khuyến, sống trong thế giới của những "** cầu Nôm", "Tiến sĩ giấy", "Hội Tây"...vẫn không chút bợn nhơ :" Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết / Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ "... Nhà thơ vô cùng căm ghét bọn cướp nước và bán nước. Ông dùng tài thơ trào phúng vừa hóm, sâu, vừa cay độc đến tận cùng mà váy hóa lá cờ tam tài của giặc trong tiếng cười thâm thuý :" Ba vuông phất phới cờ bay dọc / Một bức tung hoành váy xắn ngang". Hóa ra cái váy con ** của thời :" Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó" đã được kéo lên thành cờ "ba vuông" phất phới, ngang dọc, làm bình phong che mặt tham quan ô lại đục nước béo cò. Nguyễn Khuyến mang vũ khí trào lộng vạch mặt chúng bằng tiếng cười cay độc :" Có tiền việc ấy mà xong nhỉ / Đời trước làm quan cũng thế a ?" Phải sống trong thời " ** mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc " làm sao Nguyễn Khuyến không thẹn thùng, tủi hổ, xót xa cả hồn thơ, đành than trời :" Thử xem trời mãi thế này ư ?". Tìm mùa thu ẩn mình không yên ổn, núp vào mình cũng không xong, nhà thơ đôi khi phải trốn vào giấc mơ mà chơi trò đánh bùn sang ao bản thể, mà lẫn lộn bóng mình với bóng người, lấy hư làm thực bằng một câu thơ tuyệt hay, rất hiện đại :" Bóng người ta nghĩ bóng ta / Bóng ta, ta nghĩ hóa ra bóng người"( Bóng đè cô đầu).

Thơ nôm Nguyễn Khuyến hay cả ở thần lẫn ở thái, ở hình lẫn ở thể, ở hồn chữ dân gian, gợi cảm, mới lạ, hiếm thấy ví như :" Quyên đã gọi hè quang quác quác / Gà từng gáy sáng tẻ tè te ...Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe ", " Bán buôn gió chị với trăng dì"...Nguyễn Khuyến quả là thánh chữ khi dùng động từ "thập thò " trong câu thơ thần tình sau :"Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm / Xanh xanh như sắp thập thò hoa". Câu thơ "sắp thập thò hoa" này mang đặc trưng nhất của phong cách Nguyễn Khuyến. Từ đây, ta có thể thấy thi pháp " thập thò hoa" là thi pháp độc đáo kỳ khu của thơ ông : thập thò giữa tình và cảnh, giữa vật và tâm, âm và điệu, cảm và thức, thập thò giữa thực và hư... kiểu "hoa năm ngoái" và "ngỗng nước nào"... Nguyễn Khuyến mượn cảnh đẹp nông thôn mà yêu nước Việt, một tình yêu buồn thương u uất được thể hiện bằng nghệ thuật trữ tình trào phúng của thơ bậc thầy. Ông chính là ngọn Đọi sơn của thi ca Việt Nam, nơi nhà thơ từng viết: " Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá / Sư cụ nằm chung với khói mây". Không, chính là hồn thơ Nguyễn Khuyến vẫn "nằm chung với khói mây" trên đỉnh trời thi ca dân tộc. Thắp nén hương ngày tết tưởng nhớ lần giỗ thứ 90 của Nguyễn Khuyến, cũng là dịp cho ta đọc lại câu thơ hay nhất của thi hào mà giật mình trước tấm lòng trắc ẩn và tư tưởng sâu sắc của tiền nhân, đã có nhã ý mượn tóc gió mà dối lại cho đời sau câu hỏi nhức nhói khôn cùng của triết học nhân sinh :"Ngọn gió không nhường tóc bạc a ?". Vâng, ngọn gió thời gian, ngọn gió của quy luật muôn đời không nhường tóc bạc thời đại Nguyễn Khuyến đã đành, mà kể cả thời đại chúng ta, nó cũng không biết nhường ai cả, dù là tóc bạc của thi ca, của thiên tài đi chăng nữa.,.

2.Hồn thơ Tú Xương
Thơ Tú Xương là một đặc sản của thời cuộc. Thời cuộc buổi Tây sang, đánh cướp được nước ta rồi, họ hạ trại tính chuyện ăn ở lâu dài và khai thác các nguồn lợi. Họ du nhập áp đặt lối sống của họ. Họ tạo ra một thứ người Việt tôi tớ. Làm tôi tớ mà lại dị hợm. Dị hợm vì cơm thừa canh cặn, cũng dị hợm với lối sống học mót ngoại bang, từ nói năng xì xồ nói ít tiếng Tây, đến ăn uống sáng rượu sâm banh tối sữa bò.



Đấy là bọn quan lại tay sai phủ, huyện, tổng đốc, nhưng đông hơn, gặp chan chát ngoài đời và tạo nên nét đổi thay cả xã hội, lại là lớp công chức ăn lương Pháp, ấy là các thứ thông, ký, phán, tham… cho đến các thầy cẩm, thầy cò. Lớp người này sống ở các thành thị, làm nên nét đặc trưng của phố phường thời ấy.



Cái bối cảnh xã hội nhố nhăng tủi nhục ấy đã lọt vào tầm cảm hứng của Tú Xương, một người sinh và sống ở phố phường Nam Định. Xã hội Nam Định cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi hiện lên, cụ thể, chi tiết là hiện từ thơ Tú Xương. Và chỉ trong thơ Tú Xương nó mới phong phú, sinh động đủ cho hôm nay ta đọc mà còn như được chung khóc cười với tác giả.



Thơ Tú Xương thành một bảo tàng nhan nhản những hiện vật thời cuộc của riêng Nam Định và cũng là của chung điển hình cho cả nước trong cái thời bi phẫn đó. Đạo lý băng ngoại, đồng tiền lên ngôi, chất người xuống giá. Tú Xương ngửa mặt kêu trời cho cái mảnh đất Phố phường tiếp giáp với bờ sông:



Có đất nào như đất ấy không?
(…) Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng
Keo cú người đâu như *** sắt
Tham lam miệng thở những hơi đồng
Tú Xương bi phẫn trong bài thơ Đau mắt:
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ
Giương mắt trông chi buổi bạc tình



Từ bệnh đau mắt đã thành nỗi đau con mắt lúc trông đời. Ông còn đau trong trái tim. Đau khi đêm vắng trong tâm trí nghe vọng tiếng gọi đò trên con sông đã lấp.



Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò



Sông Lấp ấy là của Nam Định, nhưng tiếng gọi đò thì đã thành tiếng gọi hồn sông núi của con dân cả nước. Cái giật mình Tú Xương là cái giật mình thân phận của cả một dân tộc.



Tú Xương là nhà thơ đặc sắc của toàn dân, của mọi địa phương. Các thế hệ học trò đều học và nhớ thơ ông.



Trong các nhà thơ viết bằng thứ chữ vuông tượng hình, ông là người đầu tiên và cũng là cuối cùng, đã đưa được không khí thị dân tiền tư bản vào thơ. Ông đã mang được chất liệu, lẫn cảm xúc hiện đại của thế kỷ XX vào các câu thơ được gọi là cổ điển.



Nguyễn Khuyến, nhà thơ lớn cùng thời với ông, sinh trước ông 35 năm và mất sau ông hai năm, tài thơ cũng cao, nhưng không giàu chất sống hiện thực bằng ông, không đủ gay gắt việc đời như ông. Nguyễn Khuyến là ông đại khoa không có được cái cay đắng Trần Tế Xương, hay chữ mà lều chõng đến tám khoa, từ 1885 đến 1906, chỉ được cái tú tài.



Nỗi từng trải ấy đẻ ra cái nhìn hiện thực trào lộng vỗ mặt vào thứ khoa cử cuối mùa, đào tạo tôi tớ cho thực dân xâm lược:



Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng



Đầu đối với đít là nhục thì lấy động từ ngỏng mà trả thù. Hiện thực ấy là hiện thực của thành Nam, nó nhỡn tiền đối với Tú Xương, nơi có trường thi lôi thôi sĩ tử.



Một tỷ lệ lớn thơ Tú Xương là thơ nói việc đi thi, hỏng thi, gắn nhiều tên đất, tên người của Nam Định. Tú Xương khi trữ tình thì còn tiêu tao ước lệ Tam Đảo Ngũ Hồ, chớp bể mưa nguồn chứ Tú Xương khi đã hiện thực thì nhân chứng vật chứng cụ thể lắm, chi tiết đủ độ tin cậy làm hồ sơ cho lịch sử:



Ở phố hàng Song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang



Rồi những ông lang Xán, chú ích Sinh, kẹo Thiều Châu, bánh Hanh Tụ…



Nguyên liệu tạo nên thơ Tú Xương là Nam Định. Từ Nam Định hồn thơ ông đã ôm và đất nước, bao quát một giai đoạn lịch sử. Tú Xương hộ khẩu thường trú ở phố hàng Nâu, ở phố hàng Nâu có phỗng sành.



Phố hàng Nâu bây giờ là phố Minh Khai, căn nhà số 280. Gia đình ông Trần Ngọc Thành đã ở đây từ năm 1952, căn nhà sửa chữa nhiều lần, giờ đây lại xây một căn mới phía trước. Nhưng vẫn còn giữ được căn nhà gác hai tầng của Tú Xương nằm khuất phía sau. Khách thăm xin phép vẫn được gia chủ rộng lòng cho vào thăm. Nhưng phải là người biết, chứ khách vãng lai đi qua ngoài phố không ai biết đây là nơi ăn ở của Tú Xương. Căn gác đã ọp ẹp lắm. Phải chăng người chủ thổ cư này chưa phá đi xây lại là vì trong lòng một cư dân Nam Định cũng còn lưu luyến chút hơi hướng Tú Xương.



Thơ Tú Xương đã tạo nên phần đặc sắc cho một giai đoạn thơ ca dân tộc và độc đáo hơn, nó đã thành tâm hồn của phố phường Nam Định. Những dấu tích còn lại của cuộc đời ông đã thành phần tài sản quý báu của thành phố, thành sức thu hút, thành nơi chiêm ngưỡng của đồng bào cả nước khi về Nam Định. Thời gian càng lùi xa, đời sống văn hóa của dân ta càng được nâng cao, những dấu tích ấy càng trở nên vô giá.



Nghĩ vậy nên mong muốn ủy ban tỉnh, ngành văn hóa nên mua lại căn nhà 280 Minh Khai, chỉ có 102 mét vuông đất, để rồi tôn tạo, phục hồi giữ lại nguyên dạng căn nhà cũ, gắn biển kỷ niệm, gìn giữ cho đồng bào cả nước di tích của nhà thơ và cũng là dấu vết kiến trúc một Nam Định cái thời Trời đất xoay ra phố cả làng.



Đối diện với căn nhà ở của ông Tú, bên kia đường, còn gian nhà ông ngồi dạy học. Gian nhà giột nát, người ta đã phải trùm tấm tôn lên một nửa mái ngói, nhưng vẫn còn tường vách rui mè cũ và phía trước, cuối cái sân con, còn một bức phù điêu vôi vữa hình cuộn thư, có chữ triện. Mưa nắng phôi pha nhưng vẫn đủ gợi bâng khuâng thương nhớ người xưa.



Phục chế lại nhà cửa, phục hiện và sưu tầm lại nghiên bút, lều chõng, thi cử thuở xưa, biến đây thành bảo tàng Tú Xương, bảo tàng thơ và bảo tàng việc học. Đấy không chỉ là tấm lòng chúng ta ghi ơn nhà thơ mà còn dấy nên niềm tự hào của con dân Nam Định về truyền thống hiếu học tự bao đời.



Tiếng gọi đò trong bài thơ Sông Lấp của Tú Xương làm xao xuyến mọi lòng dân Việt bởi cái âm hưởng như gọi hồn đất nước. Theo tôi đấy là bài thơ hay nhất của Tú Xương, và cũng là bài thơ của một giai đoạn lịch sử, của hồn vía Việt Nam sâu nặng.



Hai câu thơ trích từ bài này đã được các nhà quản lý văn hóa khắc trên bia mộ Tú Xương, nơi vườn hoa Vị Xuyên. Ngôi mộ được di dời từ những năm đất nước còn gian khổ. Ngày ấy có người kêu, trách ngành văn hóa: ép cụ Tú rời xa đồng ruộng, vào nằm nơi bụi bậm thị thành, vườn hoa bóng liễu, trai gái trăng hoa. Bây giờ nhìn cả quần thể kiến trúc nơi đây, một vùng trang trọng nhất của thành phố, nơi mọi du khách đều đến thăm viếng, mới thấy việc chuyển mộ Tú Xương năm ấy là có lý. Chỉ tiếc trong hai câu thơ trích, khắc quốc ngữ trên bia, có một chữ sai, nên sửa.



Trở lại bài thơ Sông Lấp, bài thơ mang hồn ông Tú. Nam Định ta nên cố định dáng vẻ tâm hồn gọi đò đêm này bằng một bức tượng Tú Xương, y phục dân tộc, chới với gọi đò. Bức tượng nhìn ra sóng nước sông Đào, bên chỗ Cầu Đò Quan thoáng đãng. Tú Xương gọi hồn nước. Chúng ta gọi hồn ông. Chúng ta tự hào truy lĩnh tài sản tâm hồn ông để lại và qua bức tượng chúng ta cũng bàn giao lòng biết ơn Tú Xương với mai sau.

Một ông Nguyễn Khuyến thì đau đáu với thời cuộc, chửi kẻ ác thâm thúy (Hoàng Cao Khải, mụ Tư Hồng...) Một ông Tú Xương thơ hay mà thi cử thì lận đà lận đận nên ngông cuồng trong hồn thơ. Thế đó.

Sponsored content



Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết